Kết quả dò thám
Kết quả phân tích hóa học mẫu nước trên sao chổi Comet 67P/Churyumov-Gerasimenko cho thấy nó có lượng Deuteri cao hơn gấp ba lần so với hydro trong phân tử nước trên Trái Đất. Deuteri còn gọi là hydro nặng, một đồng vị bền của hydro. Trong 10.000 phân tử nước trên Trái Đất thì có ba phân tử chứa đồng vị hydro nặng.
Theo Reuters, phát hiện này loại trừ khả năng cho rằng nước trên Trái Đất có nguồn gốc từ sao chổi, và mở ra hướng nghiên cứu mới tập trung vào tiểu hành tinh.
"Các tiểu hành tinh có thể từng có lượng nước nhiều hơn so với hiện nay. Chúng đã tồn tại ở khu vực gần với Mặt Trời trong 4,6 tỷ năm", chuyên gia Kathrin Altwegg của Đại học Bern, Thụy Sĩ, nói.
Robot thăm dò của Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) hạ cánh xuống bề mặt sao chổi 67P/Churyumov-Gerasimenko hôm 12/11, sau hành trình kéo dài 10 năm. Theo dữ liệu ban đầu, robot Philae phát hiện dấu vết của phân tử hữu cơ chứa nguyên tử carbon, vốn là nhân tố cơ bản của sự sống trên Trái Đất.
Sao chổi 67P/Churyumov-Gerasimenko được phát hiện năm 1969. Nó có đường kính 4 km và nằm cách Trái Đất khoảng 500 triệu km.
Nước là gì và từ đâu mà có?
Hẳn là bạn đã nghe nói về nguyên tử, tức là thành phần bé nhất của tất cả mọi vật chất trong vũ trụ. Tất cả chúng ta đều cấu tạo từ những nguyên tử bé tí tẹo ghép lại với nhau. Các nguyên tử kết hợp với nhau tạo thành các phân tử.
Một phân tử nước tinh khiết được tạo thành bởi hai nguyên tử hydro kết hợp với một nguyên tử ô-xi. Các nhà khoa học cho rằng nước trên Trái Đất sinh ra do các chất khoáng chứa nhiều nước bị tan chảy trong quá trình hình thành nên hành tinh của chúng ta và các sao chổi băng giá đã va vào Trái Đất hàng tỉ năm trước đây và tan ra.
Tại sao chúng ta không thể tạo ra nhiều nước hơn?
Các nhà khoa học có thể tạo ra một ít nước trong phòng thì nghiệm nhưng để tạo ra lượng nước đủ lớn để dùng trong đời sống hàng ngày thì không thể làm được, vì chi phí cực kì cao, quá trình sản xuất tạo ra rất nhiều năng lượng và có thể gây ra những vụ nổ nguy hiểm.
Tổng lượng nước trên toàn Trái Đất không hề thay đổi nhưng địa điểm có nước và tình trạng của nước thì luôn luôn thay đổi, tức là nước có thể ở thể lỏng (như là nước chúng ta uống hàng ngày chẳng hạn), hoặc ở thể rắn (băng) hoặc thể khí (hơi nước).
Các nhà khoa học gọi quá trình nước thay đổi trạng thái là vòng tuần hoàn của nước, đó là khi nước liên tục chuyển động quanh thế giới bằng cách đi qua không khí, xuống đất và ra biển.
Quay vòng và lại quay vòng
Vòng tuần hoàn của nước bắt đầu khi nước ở biển (hoặc hồ, sông và đầm lầy) bay hơi vào khí quyển (tức là vào không khí xung quang chúng ta) dưới dạng hơi nước (thể khí).
Không khí nóng chứa hơi nước bốc lên cao nhiều dần tụ thành các đám mây. Ở trên cao lạnh nên không khí không có khả năng giữ được hơi nước nữa, vì thế nước lại trở lại trạng thái lỏng và rơi xuống Trái Đất thành mưa. Một phần mưa bay hơi ngay và trở lại khí quyển, phần còn lại rơi xuống biển trở thành nước mặt hoặc ngấm vào đất thành nước ngầm.
Cây cối có thể hút nước ngầm bằng rễ và đưa nước lên lá.
Các mạch nước ngầm chảy chầm chậm từ đất rồi ra biển và vòng tuần hoàn lại bắt đầu.
Vòng tuần hoàn của nước rất dễ bị thay đổi do tác động của nhiệt độ và áp suất, ví dụ: trong điều kiện nóng và gió thì nước bay hơi nhiều hơn. Vì vậy biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến vòng tuần hoàn của nước. Ở những vùng trước đây ẩm ướt thì trở nên khô hanh và ngược lại, bởi vì mưa rơi xuống biển chứ không rơi xuống vùng đất liền để cho các sinh vật trên đất liền hấp thụ và sử dụng nước.
Hai giọt nước uống nhỏ bé
Chúng ta uống nước ngọt, nhưng hầu hết nước trên Trái Đất lại là nước mặn, và phần lớn nguồn nước ngọt sẵn có trên Trái Đất lại nằm sâu dưới đất hay chính là nước ngầm.
Trên thực tế, bạn có thể tưởng tượng thế này: tất cả lượng nước trên Trái Đất bằng một hộp sữa 1 lít thì chỉ có 2 thìa là nước ngọt, còn lại là nước mặn ở biển.
Trong hai thìa nước ngọt đó, gần ¾ là nước đóng thành băng, còn lại mới là nước ngầm.
Nước ngọt chúng ta nhìn thấy và sử dụng từ các sông, hồ, ao chỉ chưa bằng hai giọt nước so với toàn bộ hộp 1 lít tương đương toàn bộ nước trên Trái Đất.
Vì thế, việc bảo vệ các nguồn nước ngọt là vô cùng quan trọng bởi vì để tách muối ra khỏi nước biển để con người có thể sử dụng được là tốn kém rất nhiều tiền và công sức.
Khí quyển, Trái Đất và biển có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và những việc chúng ta làm ở nơi này có thể tác động đến chất lượng nước ở những nơi khác.
Hóa chất bị đổ xuống các nguồn nước như ao, hồ, sông, suối, biển hoặc bay hơi vào khí quyển cuối cùng sẽ ngấm vào nước ngầm làm ô nhiễm nước và chúng ta sẽ không có đủ nước sạch để dùng nữa.
Cho dù chúng ta không thể tạo ra nhiều nước hơn, nhưng chúng ta vẫn có thể giữ được nước nếu chúng ta biết bảo tồn và bảo vệ nước.
Nguồn bài viết: Sưu tầm